Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự tiếp nối của công cuộc đổi mới

TCCS - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Ðảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu đó là “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XI của Đảng cũng xác định, một trong ba khâu đột phá chiến lược là “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sản phẩm chủ quan của tư duy thuần túy mà là sự tổng kết từ thực tiễn, kế thừa và phát triển các lý thuyết về kinh tế thị trường và là mô hình phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Với tư duy đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI của Đảng mở ra một bước ngoặt và sự khởi đầu quan trọng của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội VI đã khẳng định việc giải phóng sức sản xuất, chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Đại hội xác định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế, nhằm tạo động lực thúc đẩy các đơn vị sản xuất, kinh doanh nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả với cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chủ trương của Đại hội đề ra cần kết hợp hài hòa các lợi ích của người lao động, tập thể và toàn xã hội, coi đó là động lực phát triển kinh tế, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng bảo đảm sự thống nhất hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, thực hiện công bằng xã hội và khắc phục xu hướng bình quân hóa trong phân phối. Tuy nhiên, Đại hội VI chưa đề cập đến phát triển kinh tế thị trường, và bản thân tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế. Một điểm cần lưu ý là, mặc dù đã đặt ra sự thay đổi về cơ chế mới nhưng vẫn nặng về tính kế hoạch thống nhất, “tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ” và “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới...”. Những hạn chế của Đại hội VI đã được khắc phục một phần quan trọng tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, cụ thể:
- Xác định chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tính dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người có điều kiện làm ăn theo pháp luật.
- Xác định các thành phần kinh tế vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật và xóa bỏ những định kiến, phân biệt đối xử không đúng và hình thức độc quyền kìm hãm những xu thế ấy.
- Vị trí của các thành phần kinh tế được xác định lại: kinh tế quốc doanh có đủ lực lượng chi phối thị trường nhưng không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, nghề; kinh tế tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII của Đảng đã có bước phát triển mới trong nhận thức về mối quan hệ giữa cơ chế thị trường, Nhà nước và doanh nghiệp. Tuy chưa khẳng định rõ “Nền kinh tế thị trường”, nhưng đã xác định “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”. Trong cơ chế đó, “Phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”, “Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội”.
Về những yêu cầu của cơ chế thị trường, Đại hội nhấn mạnh: “Kiên trì vận dụng cơ chế thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng; điều chỉnh từng bước mặt bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi giá quốc tế đối với các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu...”.
Đại hội cũng chỉ rõ: “Thực tế cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng. Hơn nữa, cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế, xã hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ khác”.
Cùng với những nhận thức mới về kinh tế thị trường, Đại hội VII yêu cầu “Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy bén nắm bắt cái mới. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp”, “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình”.
Đại hội VII xác định công bằng xã hội phải được thực hiện trong cả phân phối tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; quan hệ giữa người giàu và người nghèo; chính sách đền ơn đáp nghĩa và điều tiết thu nhập... Những quan điểm đó được triển khai trên thực tế đã tác động tích cực đến việc thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và tăng cường đồng thuận xã hội.
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4-2001), khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính thức được thể hiện trong các văn kiện, đồng thời khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế vừa có những đặc điểm chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Kế thừa tư duy lý luận của Đại hội IX, Đại hội X của Đảng đã làm rõ thêm một bước nội dung cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên các phương diện: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta; nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... Giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã tiếp tục quán triệt quan điểm trên đây, đồng thời nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bên cạnh những thành tựu, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc…”, đồng thời nhấn mạnh: “Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. Chính vì thế, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện về mặt lý luận cũng như liên hệ với thực tiễn trong bối cảnh hiện nay về những vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng cấp thiết.
Trước hết, cần khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta không đối lập nhau, có những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình phát triển nhưng điều đó hoàn toàn theo quy luật khách quan và có những phương thức giải quyết. Chúng ta xem kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục đích khi phát triển nó theo một định hướng và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, nhằm phát huy tất cả những mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật của nó. Chính vì vậy, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội XI của Đảng xác định là một trong ba khâu đột phá chiến lược và đó cũng chính là khung pháp lý cho sự phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, những đặc trưng và tiêu chí của kinh tế thị trường nói chung đã được thể hiện trong nhiều học thuyết kinh tế, trong thực tiễn phát triển và cả ở sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Do đó trong quá trình phát triển, có thể tham khảo những đề xuất sau đây của WTO, EU và Mỹ:
Những tiêu chí của WTO: thương mại không phân biệt đối xử; tự do hóa thương mại và gia nhập thị trường; bảo đảm tính minh bạch, tiên liệu được trong chính sách thương mại; bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, chống bóp méo giá cả, chống bán phá giá; thúc đẩy phát triển và cải cách kinh tế, tạo điều kiện cho chính phủ khắc phục các dạng “thất bại” của thị trường thông qua ưu đãi thuế quan và thực hiện các dạng trợ cấp được phép.
Những tiêu chí của EU: mức độ ảnh hưởng (thấp) của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp, bất kể là trực tiếp hay gián tiếp; nhà nước không được can thiệp, bóp méo hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến quá trình tư nhân hóa; không sử dụng hệ thống thương mại phi thị trường (hàng đổi hàng) và không áp dụng chế độ bao cấp; ban hành và thực thi luật doanh nghiệp bảo đảm tính minh bạch, không phân biệt đối xử, tạo điều kiện phù hợp cho quản lý doanh nghiệp; ban hành và áp dụng một hệ thống luật thống nhất, hiệu quả và minh bạch bảo đảm tôn trọng quyền sở hữu tài sản và bảo đảm sự vận hành của cơ chế phá sản doanh nghiệp; tồn tại một khu vực tài chính đích thực, hoạt động độc lập với nhà nước, về mặt luật pháp cũng như trên thực tế, chịu sự điều chỉnh của các quy định bảo lãnh đầy đủ, chịu sự giám sát một cách thỏa đáng; tự do hóa thị trường để mở rộng cạnh tranh.
Những tiêu chí của Mỹ: mức độ chuyển đổi của các đồng tiền nước ngoài với bản tệ; mức độ thỏa thuận về tiền lương giữa người lao động và nhà quản lý; mức độ tự do trong hoạt động của các công ty có vốn nước ngoài; mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; mức độ kiểm soát của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và đối với các quyết định về giá cả và sản lượng của các doanh nghiệp; các yếu tố khác có liên quan như mức độ tự do hóa thị trường và thương mại, nhà nước pháp quyền, chống tham nhũng v.v..
Với những tiêu chí trên đây, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã thể hiện được tương đối đồng bộ, nhiều nước đã công nhận nước ta là nền kinh tế thị trường (trước hết là các nước thành viên của ASEAN). Tuy đến nay EU, Nhật Bản và Mỹ vẫn chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, nhưng cùng với sự vận động thực tiễn nền kinh tế và quan hệ ngày càng tốt hơn giữa nước ta với các nước, thời hạn trên chắc chắn sẽ được rút ngắn.
Thứ ba, cần xác định những nội dung quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”. Do vậy, một số nội dung cần được làm rõ và phát triển trong nghiên cứu:
- Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
- Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó vai trò của kinh tế nhà nước cần được đầu tư nghiên cứu thỏa đáng.
- Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ cụ thể, mọi đơn vị kinh doanh đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
- Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và theo nguyên tắc thị trường; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Thứ tư, tiếp tục đi sâu nghiên cứu và có những nhận thức hệ thống, bổ sung để ngày càng toàn diện hơn về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh. Trong đó kinh tế nhà nước phải được chú trọng đặc biệt, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Phát triển kinh tế phải đồng hành với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận các cơ hội kinh doanh và phân phối kết quả làm ra. Phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế của Nhà nước, chú trọng phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế...
Sự phát triển của nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau, trong đó kinh tế thị trường đã chứng tỏ sức sống tiềm tàng và những khả năng thích ứng với nhiều biến thể của lịch sử. Tuy nhiên, những rủi ro tiềm ẩn của kinh tế thị trường là rất lớn, nguy cơ của khủng hoảng, suy thoái của nó không phải âm ỉ như trong mô hình kinh tế kế hoạch mà bùng phát và mang tính dây chuyền cao, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Sức tăng trưởng cao, đồng thời nguy cơ khủng hoảng và suy thoái lớn là những đặc tính cố hữu của kinh tế thị trường, chỉ trong điều kiện xác định đúng đắn định hướng phát triển của nó, dự đoán và có khả năng đối phó với những nguy cơ và ảnh hưởng của kinh tế thị trường thì đất nước mới có thể đạt được những mục tiêu đặt ra./.
Nguyễn Tiến DũngTS, Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét