Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012

THÀNH VIÊN CHÍNH PHỦ NHIỆM KỲ 2011-2016

Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng
Phó Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc
Phó Thủ tướng
Hoàng Trung Hải
Phó Thủ tướng
Nguyễn Thiện Nhân
Phó Thủ tướng
Vũ Văn Ninh
Bộ trưởng Quốc phòng
Phùng Quang Thanh
Bộ trưởng Công an
Trần Đại Quang
Bộ trưởng Ngoại giao
Phạm Bình Minh
Bộ trưởng Tài chính
Vương Đình Huệ
Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư
Bùi Quang Vinh
Bộ trưởng Công Thương
Vũ Huy Hoàng
Bộ trưởng Giao thông
Đinh La Thăng
Bộ trưởng Xây dựng
Trịnh Đình Dũng
Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo
Phạm Vũ Luận
Bộ trưởng Y tế
Nguyễn Thị Kim Tiến
Bộ trưởng Tư pháp
Hà Hùng Cường
Bộ trưởng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn
Cao Đức Phát
Bộ trưởng Khoa học Công nghệ
Nguyễn Quân
Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội
Phạm Thị Hải Chuyền
Bộ trưởng Thông tin Truyền thông
Nguyễn Bắc Son
Bộ trưởng Văn hóa Thể thao Du lịch
Hoàng Tuấn Anh
Bộ trưởng Nội vụ
Nguyễn Thái Bình
Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường
Nguyễn Minh Quang
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ
Vũ Đức Đam
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
Giàng Seo Phử
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Nguyễn Văn Bình
Tổng thanh tra Chính phủ
Huỳnh Phong Tranh

Đường lối đối ngoại của ĐH XI

Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, đề ra đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới. Về tổng quan, đường lối đối ngoại của Đại hội XI là sự
tiếp nối đường lối đối ngoại của các Đại hội trước trong thời kỳ Đổi Mới, được khởi xướng từ Đại hội VI năm 1986. Đồng thời, đường lối này có những phát triển mới phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn Việt Nam hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Tổng quan đường lối đối ngoại của Đại hội XI
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,  hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghãi giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp  hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Những định hướng lớn về đối ngoại của Đại hội XI:
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm nêu trên, Đại hội XI đã đề ra những định hướng lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới. Trong đó, định hướng tổng thể, bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu; còn định hướng cụ thể gồm có:
(i) Về quan hệ song phương: Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới, đồng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ chốt.
(ii) Là thành viên ASEAN: Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
(iii) Về ngoại giao đa phương: Với phương châm là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, đặc biệt là Liên Hợp quốc.
Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu.
(iv) Về biên giới lãnh thổ: thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
(v) Về các lĩnh vực khác: Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại đảng với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và các đảng khác, tiếp tục coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân.
Những phát triển mới quan trọng :
Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị hội nhập sâu rộng, đường lối đối ngoại của Đại hội XI đã có một số phát triển mới, quan trọng để phù hợp với nhiệm vụ mới và tình hình mới, cụ thể là:
Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Lợi ích quốc gia - dân tộc là lợi ích tối cao của gần 90 triệu nhân dân Việt Nam và hơn 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài.
Hội nhập quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn, lấy hội nhập kinh tế là trọng tâm và mở rộng sang các lĩnh vực khác: chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa-xã hội và ở mọi cấp độ song phương, khu vực, đa phương và toàn cầu.
Từ chủ trương “là bạn và đối tác tin cậy” của Đại hội IX, Đại hội XI bổ sung thêm Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại. Đại hội XI khẳng định Việt Nam là thành viên ASEAN, cam kết phấn đấu cùng các nước xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN.
Các hoạt động đối ngoại sẽ được triển khai đồng bộ, toàn diện trên cơ sở phát huy tiềm lực của mọi lực lượng và thực thi trên mọi kênh, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên mặt trận đối ngoại.

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Toàn cầu hóa và khả năng cạnh tranh nền kinh tế Việt Nam

Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới. Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa. Những nước và các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt trái của toàn cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động. Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt tích cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số khía cạnh về ảnh hưởng của toàn cầu hóa kinh tế đến quan hệ cạnh tranh.

1. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến cạnh tranh quốc tế
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế. Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước đây.

Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.

Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, toàn cầu hóa hoàn toàn không phải là "trò chơi" hai bên đều thắng, mà nó thường gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nước và doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những nước và doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động của thương mại và đầu tư quốc tế. Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi là phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập.
Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc khuyếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới. Song, do khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác nhau, lợi ích mà họ thu được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang nhau. Những nước kém phát triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do hạn chế về năng lực cung ứng các nguồn lực, họ không được lợi trong thương mại. Trong lúc nhiều quốc gia thuộc nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp dụng chính sách mở cửa, thu hút FDI và đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển.

Cho dù đã và sẽ còn những nghi ngại đối với toàn cầu hóa, nhưng không thể phủ nhận và né tránh ảnh hưởng khách quan của nó đối với tất cả các nước. Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Xu hướng này liên quan đến hàng loạt nhân tố, đó là : sự ra đời của thị trường toàn cầu; sự ra đời với tốc độ nhanh chóng của hàng loạt công ty mới giàu tinh thần lập nghiệp và năng lực sáng tạo kinh tế; sự xuất hiện liên tục của những kỹ thuật mới và thị trường mới; sự gia tăng thường xuyên sức ép trên thị trường chứng khoán đối với giá cổ phiếu; sự rút ngắn vòng đời của sản phẩm và sự nhất thể hóa kinh tế có hiệu lực về mặt pháp lý... Ngày nay, bất kỳ chủ thể nào muốn trụ vững và giành thắng lợi trên thị trường khu vực và thế giới, đều phải tính toán đầy đủ các nhân tố đó khi thiết kế và thực hiện chính sách cạnh tranh.

2. Về một số vấn đề liên quan đến ViệtNam
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu rõ, phải "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển... Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ". Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10-2003) Quốc hội khóa XI, cũng thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh tế trong ba năm vừa qua (2001 - 2003) chủ yếu vẫn theo chiều rộng, tăng về số lượng, nhưng chậm chuyển biến về chất lượng... Nhìn chung, sức cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp và nền kinh tế đều thấp. Từ đó nhấn mạnh một trong các giải pháp lớn là "phải tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại... Năm 2004 phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi với việc thực hiện cam kết về lộ trình tham gia Khu vực Mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA) và phát triển các quan hệ kinh tế song phương, cần đẩy mạnh đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với phương án thích hợp để sớm trở thành thành viên của tổ chức này".

Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia quá trình toàn cầu hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất cho thấy Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Một là, những vướng mắc về nhận thức.

Hiện thời, ngay trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách ở cấp chiến lược, vẫn còn nhiều bàn cãi về vấn đề nên hội nhập như thế nào. Gắn liền với câu hỏi lớn này là hàng loạt vấn đề cụ thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa nên như thế nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh nghiệp hiện tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh tranh quốc tế? Nên hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ vào quá trình phát triển các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trường hiện đại? Phương thức hội nhập nên như thế nào: thông qua việc tham gia vào các hiệp định đa phương, khu vực và song phương, thông qua việc đơn phương tự do hóa, hay thông qua việc kết hợp các yếu tố này? Để bổ trợ cho tự do hóa thương mại và đầu tư nhằm tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu các rủi ro thì cần có những biện pháp nào?

Hai là, những vướng mắc trên thực tế thể hiện ở một loạt chỉ tiêu so sánh khả năng cạnh tranh.

Về khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu và du lịch (bao gồm kim ngạch xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người; tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người, thu nhập từ du lịch tính theo đầu người; tổng kim ngạch dịch vụ xuất khẩu).

Về khả năng cạnh tranh đầu tư (liên quan đến các chỉ số: hoàn thành vốn gộp, tổng đầu tư cố định của tư nhân, tăng trưởng tổng đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài thuần-tính theo tổng số và trên đầu người): Tổng đầu tư nội địa của Việt Nam đạt tỷ lệ 25% GDP, tuy có cao hơn mức trung bình của khu vực ASEAN (23 - 24%), nhưng đầu tư nước ngoài (FDI) còn thấp hơn rất nhiều so với nhiều nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Suất đầu tư cho tăng trưởng (hệ số ICOR) của Việt Nam tăng nhanh và ở mức cao.

Về khu vực tài chính (liên quan đến các chỉ số: tiền và tiền tương đương được tính bằng % của GDP; tín dụng trong nước từ khu vực ngân hàng; tín dụng cấp cho khu vực tư nhân; đánh giá mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế ; tổng tiết kiệm trong nước). Tuy nhiên, khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn ở tình trạng kém phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân hàng cung cấp còn ở mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở mức 79/127 nước.

Về môi trường vĩ mô (bao gồm các chỉ số: lạm phát, thâm hụt ngân sách, tổng thương mại, thuế nhập khẩu, tiền thu từ tư nhân hóa): Phần lớn các chỉ số về chính sách vĩ mô của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình, riêng thuế nhập khẩu vẫn ở mức 26% - mức quá cao so với yêu cầu của WTO (từ 13 đến 15%).

Về quy chế môi trường kinh doanh (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng doanh nghiệp mới thành lập, về xử phạt hành chính; chỉ số về nhận thức tham nhũng, chỉ số về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về xử lý quan liêu của Chính phủ, mức độ hoạt động của kinh tế ngầm, chỉ số về tự do kinh tế) : Theo phân loại của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế hành chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức độ mở cửa của nền kinh tế. Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa đổi), nhưng dư luận xã hội cho rằng luật này chưa đáp ứng được các đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự chủ, tự hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp, "xin cho" và các đặc quyền đặc lợi khác (khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lãi suất tiền vay...). Đây chính là những kẽ hở, là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước là trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, không muốn vươn lên bằng cạnh tranh lành mạnh. Những hạn chế này cũng là một căn nguyên làm tăng thêm nạn tham nhũng và tiêu cực vốn còn đang rất nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.

Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng tiến bộ công nghệ được ứng dụng, số kỹ sư và nhà khoa học trên một triệu dân, tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà nước tài trợ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu phải trở thành hàng hóa, được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó. Môi trường kinh doanh và sự phát triển ít coi trọng chất lượng và còn mang nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép buộc mọi doanh nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học, công nghệ.

Về công nghệ thông tin và truyền thông (bao gồm các chỉ tiêu: số máy tính cá nhân trên 1000 người; số thuê bao internet; chi phí gọi điện thoại trong nước và quốc tế; xếp hạng về sự sẵn sàng trong kinh doanh điện tử...): Nếu so với trước đây, tốc độ tăng trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá nhanh; nhưng so với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển, Việt Nam vẫn được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ thông tin và truyền thông, do chưa sẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử dụng thư điện tử và chi phí bình quân của các cuộc gọi trong nước và quốc tế còn cao...

Về kết cấu hạ tầng (bao gồm các chỉ số như đường đã được lát nhựa hoặc bê-tông hóa trên tổng số đường hiện có; số km2 đường được lát tính bình quân theo đầu người, mật độ điện thoại cố định, mật độ điện thoại di động; tiêu thụ điện năng trên đầu người...): Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn để phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn chỉ được xếp ở mức 76/100 nước, chỉ số về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 391 kWh (trong khi Canada là 17.000 kWh/năm, Mỹ là 14.000 kWh/năm, Trung Quốc là 926 kWh/năm, Hồng Công là 5.700 kWh/năm, Nhật Bản là 8.200 kWh/năm, Malaysia là 2.800 kWh, Thái Lan là 1.600 kWh, Singapore 8.100 kWh, Campuchia 20 kWh).

Về nhân lực (bao gồm chỉ số phát triển con người, tỷ lệ lao động nữ, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ không được vào trung học trong độ tuổi, mức rò rỉ chất xám ra nước ngoài): Trong năm 2003, Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung bình yếu về nhân lực, xếp thứ 3,79/10 - đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu vực; đáng lo ngại hơn là trình độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ cao đều còn ở mức cuối bảng.

3. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan mang tính bao trùm của tình hình là do Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra khỏi giai đoạn khởi động của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng chủ yếu vẫn là do nguyên nhân chủ quan bắt nguồn trực tiếp từ những khiếm khuyết trong hoạt động quản lý nhà nước: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế chưa đủ sức hấp dẫn, do chưa đủ quyết tâm chuyển mạnh và đồng bộ sang thể chế kinh tế thị trường. Khung pháp lý hiện có chưa đáp ứng kịp nhu cầu hình thành và phát triển của các thị trường thiết yếu, bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa đủ sức kiểm soát và ngăn chặn được các "thị trường ngầm" gây nhiều tiêu cực. Trong việc thiết kế và áp dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, nhiều cơ quan nhà nước vẫn thiên về lợi ích cục bộ của chính mình, chưa thực sự coi trọng lợi ích và nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân. Tình trạng phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Những hình thái biến tướng của bao cấp, bảo hộ và độc quyền kinh doanh đang kìm hãm khả năng phát triển của đất nước, nhưng chưa có biện pháp đủ mạnh để khắc phục. Trong một số lĩnh vực, sự độc quyền của Nhà nước bị các tổng công ty lợi dụng để biến thành đặc quyền riêng, biểu hiện ở giá cả của hầu hết sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính độc quyền đều cao hơn giá quốc tế, dẫn đến làm tăng chi phí "đầu vào" của các doanh nghiệp. Trong khi đó, chúng ta chưa xây dựng được khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng. Áp lực của hội nhập kinh tế và cạnh tranh quốc tế ngày càng mạnh, nhưng nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn "đủng đỉnh" để trông đợi vào sự đầu tư và bảo hộ của Nhà nước. Nguồn vốn ngân sách đang khan hiếm và tín dụng ưu đãi bị sử dụng dàn trải, thậm chí vẫn bao cấp tràn lan kéo dài cho nhiều doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn không có hiệu quả. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp nhìn chung vẫn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong khi lại bỏ qua hoặc thực hiện không tốt những chức năng đích thực của mình. Biểu hiện cụ thể là: quy hoạch vừa kém chất lượng vừa thiếu hiệu lực, chưa xây dựng được hệ thống thể chế mang tính đồng bộ và thống nhất phù hợp với yêu cầu khách quan của cơ chế cạnh tranh thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa, quản lý và sử dụng tài chính cũng như tài sản công còn rất lãng phí - nhất là đối với đất đai, đầu tư công cộng và mua sắm bằng tiền ngân sách...

Những thiếu sót nêu trên cùng với sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật có ảnh hưởng rất tiêu cực đến khả năng tham dự toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế của Việt Nam.

Để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng tác động mạnh mẽ cần phối hợp trí tuệ của nhiều nhà khoa học và quản lý ở nhiều cấp, nhiều ngành. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu một số vấn đề chủ yếu.

Trước hết, cần thống nhất nhận thức ưu thế lớn nhất của nền kinh tế thị trường chính là ở tính cạnh tranh. Nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường. Vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá sức sống của nó. Muốn có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ và duy trì cạnh tranh bằng các thể chế cần thiết, đặc biệt là bằng các quy định pháp luật minh bạch, dễ hiểu, dễ làm.

Hai là, nhanh chóng xác lập những điều kiện tiền đề cho chính sách cạnh tranh. Theo đó cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh giới giữa thị trường và Nhà nước; đồng thời, hình thành được hệ thống thị trường đồng bộ và hoàn thiện.

Ba là, có "công nghệ" xây dựng chính sách cạnh tranh theo chuẩn mực hiện đại, phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Theo đó, kết hợp hợp lý và có hiệu quả các biện pháp pháp chế, với kinh tế và biện pháp hành chính cần thiết. Về các biện pháp pháp chế, xác định rõ chủ thể thị trường và đưa ra những quy định thật khách quan và chặt chẽ để bảo đảm các chủ thể đó luôn được đối xử bình đẳng - đó là điều kiện quan trọng hàng đầu để duy trì cạnh tranh một cách công bằng; đồng thời phải chú trọng tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với trật tự thị trường, thúc đẩy việc thực hiện Luật Phá sản, sớm xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh và chống độc quyền - làm cho luật này của Việt Nam ăn khớp với các quy tắc thống nhất của khu vực và thế giới. Về các biện pháp kinh tế, cần bảo đảm nguyên tắc không mâu thuẫn với các biện pháp pháp chế, trên cơ sở đó xây dựng những nguyên tắc khách quan trong việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế như thuế, giá cả, tín dụng... để thúc đẩy cạnh tranh, đồng thời, tất cả các chính sách khác có liên quan đều phải có tác dụng bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh, như chính sách phát triển các ngành, chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách việc làm và tiền lương... Về các biện pháp hành chính, cần chú ý đến mối quan hệ giữa nó với các biện pháp pháp chế và các biện pháp kinh tế; trên cơ sở đó, xác định rõ chức năng và quyền hạn của các cơ quan chuyên trách và các chủ thể khác khi họ trực tiếp dùng quyền lực hành chính để can thiệp, giám sát và quản lý các hành vi thị trường của các doanh nghiệp. Các chức năng và quyền hạn đó đều phải được quy định rõ ràng trong luật hành chính và có những điều khoản tương ứng trong Luật Cạnh tranh.

Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu và thực hiện việc quốc tế hóa chính sách cạnh tranh. Việt Nam sớm có các tổ chức chuyên trách xây dựng luật và chính sách cạnh tranh. Trong quá trình này, cần chú trọng tính quốc tế hóa của luật và chính sách cạnh tranh của Việt Nam (chú trọng các đối tác quan trọng như ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc... và các tổ chức quốc tế lớn như WTO, OECD, UNDP, UNCTAD...), đồng thời, đặc biệt lưu ý đến mối quan hệ giữa chính sách và Luật Cạnh tranh của Việt Nam với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO...


nguồn :Tạp chí Cộng sản

Việt Nam trong thế giới toàn cầu hóa

Chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa với những thay đổi lớn, đa dạng và phức tạp, có ảnh hưởng đến bất cứ quốc gia nào và cá nhân nào.
Trong hai mươi năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta, đồng bào đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa đất nước vuợt qua tình trạng trì trệ kém phát triển trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh và liên tục, an ninh chính trị ổn định trong nhiều năm qua.
Thành tựu hai mươi năm đổi mới vừa qua chính là nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội để Việt Nam vươn mình trở thành một nước công nghiệp phát triển hùng mạnh, thật sự "sánh vai với các cường quốc năm châu" như lời tiên tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Trong những năm tháng có vai trò quyết định hiện nay, chúng ta sẽ phải có những quyết định mang tính lịch sử liên quan đến tương lai, sự phát triển, và bản sắc của quốc gia Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Chúng ta sẽ phải lựa chọn giữa việc dám chủ động thi đua, cạnh tranh với các nước trên khu vực và quốc tế - hay thỏa mãn với những thành quả bước đầu khi so sánh những kết quả trong quá khứ của chúng ta. Chúng ta sẽ phải lựa chọn hội nhập chủ động và toàn cầu hóa - hay bị động theo xu hướng chung của thế giới và phụ thuộc vì sức cạnh tranh của nền kinh tế không được cải thiện, vị thế quốc gia không được nâng cao. Chúng ta sẽ phải lựa chọn giữa chủ động tiếp thu những giá trị văn hóa của thế giới trên cơ sở phát huy bản sắc của truyền thống văn hóa Việt Nam - hay tiếp thu tràn lan, thiếu chọn lọc, dẫn đến bị mất bản sắc văn hóa, bị hòa tan vào trong thế giới toàn cầu hóa.
Tất cả những lựa chọn mang tính chiến lược nêu trên là quyết định của toàn thể dân tộc ta, của hơn 80 triệu công dân Việt Nam và hơn 3 triệu kiều bào trên toàn thế giới. Đảng và Nhà nước là những đại diện trung thành, là công cụ hiệu quả để tập hợp, đoàn kết và phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ và nguồn lực của toàn thể đại gia đình dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới, tận dụng vận hội mới. Nói cách khác, sự phát triển của Việt Nam không phải là công việc của riêng một tổ chức, cá nhân nào; mà đó là quyền lợi và trách nhiệm của mọi công dân, mọi kiều bào tâm huyết. Ở đây cần đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của tầng lớp thanh niên, của thế hệ tri thức trẻ; chính các bạn là những chủ nhân tương lai của đất nước, quyết định sự phồn thịnh, vị thế của quốc gia, của dân tộc và của chính bản thân các bạn.
Mục tiêu chung của tất cả chúng ta hẳn là phải nỗ lực hết mình để Việt Nam phát triển nhanh mạnh và bền vững trong một thế giới hòa bình và ổn định. Không còn cách nào khác, chúng ta phải chủ động và hội nhập có hiệu quả vào xu thế toàn cầu hóa. Hơn thế nữa, chúng ta không những chỉ biết tranh thủ cái lợi, hạn chế cái hại trong quá trình hội nhập, mà còn phải biết tác động vào diễn trình toàn cầu hóa.
Để đạt được điều đó chúng ta phải có một chiến lược ngoại giao tích cực, chủ động, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ; làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, đóng góp tích cực cho hòa bình và phát triển của cả nhân loại.
Trong diễn trình toàn cầu hóa, đường lối đối ngoại đó sẽ được cụ thế hóa rõ nét nhất bằng việc tham gia vào các tổ chức kinh tế - chính trị trên thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị quốc tế và khu vực. Chúng ta đã là thành viên của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),... Ở cấp liên khu vực, chúng ta là thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ( APEC ), Diễn đàn hợp tác Á - Âu ( ASEM ), của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)... Và sự kiện vô cùng quan trọng là chúng ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho đất nước phát triển, nhưng cũng đồng thời là thách thức lớn nếu ta chưa có một nội lực đủ mạnh. Chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước phát triển. Nỗi đau tụt hậu, chậm phát triển, thua kém bạn bè quốc tế là không của riêng ai, mà là của toàn thể những con người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng trên toàn thế giới. Chúng ta cần nhận thức rõ mối nguy chung này để biến thành những nội lực mạnh mẽ của Việt Nam, trước hết là tinh thần hội nhập, tinh thần đoàn kết; sau là nhiệm vụ phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà, song song với việc phát triển văn hóa - xã hội, nhằm tạo nên một mô hình phát triển nhanh, mạnh, hài hòa và bền vững.
Như vậy, tinh thần hội nhập, tinh thần đoàn kết sẽ được đặt lên trước tiên. Đặc biệt là khả năng nhận thức trọng trách đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay của mọi công dân đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong thời gian vừa qua, đã có những hoạt động chính trị - xã hội khơi dậy, huy động và phát lộ được tinh thần, nhiệt huyết của thế hệ trẻ nói riêng và cả dân tộc nói chung đối với Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Những hoạt động như: Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Diễn đàn "Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ ?" của Báo Thanh Niên, chuyên mục "Chào cờ sáng thứ hai" của Báo Tuổi Trẻ. Chúng ta cũng sẽ cần phải có nhiều phong trào mạnh mẽ hơn nữa, thực tế hơn nữa, để chấn hưng dân khí, đại đoàn kết toàn dân, hiến kế đúng đắn, hành động thiết thực vì một nước Việt Nam chung.
Với một quốc gia có xuất phát điểm về kinh tế thấp như Việt Nam, để có thể chuẩn bị nội lực đầy đủ cho hội nhập, hướng chính sách đối ngoại sẽ phải đảm bảo ủng hộ và bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước, đảm bảo thời điểm mở thị trường thích hợp để chúng ta có thể chuẩn bị hạ tầng kinh tế - kỹ thuật chủ động và bền vững.
Cần phải nhận thức rõ ràng rằng, sức cạnh tranh của nền kinh tế nằm ở sự đúng đắn, phù hợp của chiến lược phát triển kinh tế quốc gia có đóng góp được cho thế giới hay không, có tạo được sự tín nhiệm đối với thế giới hay không, có tạo ra được những sản phẩm, dịch vụ, thương hiệu ngang tầm thế giới hay không. Tóm lại, chúng ta phải biết rõ, phải có sự đồng thuận cao về Việt Nam sẽ đi về đâu, sẽ đóng vai trò gì trong thế giới đang biến đổi ngày một nhanh chóng và đa dạng như hiện nay.
Nói theo ngôn ngữ của hội nhập, phải có định vị quốc gia, chiến lược tổng quốc gia phù hợp với ý nguyện của dân tộc, với tiềm năng của đất nước, với xu hướng phát triển của thời đại. Định vị đó sẽ là Việt Nam trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu thế giới dựa trên nền kinh tế phát triển hài hòa, có ưu thế trong kinh tế tri thức như là một trung tâm sáng tạo mới của thế giới; Việt Nam có xã hội công bằng, văn minh, phồn thịnh nơi các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần được tôn trọng và sẽ là tấm gương cho các nước thế giới thứ hai và thứ ba vươn lên theo kịp sự phát triển chung của nhân loại.
Để nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế nên bắt đầu từ việc quy hoạch phát triển nền kinh tế dựa trên một định vị quốc gia nhất quán. Chúng ta cần phải nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Nâng cao sức cạnh tranh ở đây không có nghĩa là đầu tư tràn lan, thiếu trọng điểm, mà ngược lại đó là phát huy lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Cụ thể hơn, một mặt, phải ý thức được sự cần thiết phải giữ vững và phát triển các ngành kinh tế có ý nghĩa sống còn, đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế đất nước; mặt khác phải biết đầu tư những ngành mũi nhọn có thể tạo ra đột phá cho Việt Nam trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Nước ta là một nước có truyền thống nông nghiệp, với khoảng 75% dân số sống ở nông thôn và sống bằng nông nghiệp. Năm 2006 này, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước có thể đạt mức 38 tỉ USD, vượt mục tiêu mà Quốc hội giao cho. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và cơ cấu giá trị trong mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu sẽ thấy có nhiều mặt hàng chủ lực nếu chúng ta càng xuất khẩu được nhiều thì càng thiệt thòi. Ngành nông nghiệp này sẽ bị ảnh hưởng rất nặng nề khi Việt Nam gia nhập WTO, nông sản Việt Nam có nguy cơ thua ngay trên sân nhà, tình trạng càng xuất khẩu càng thua thiệt sẽ ngày càng trầm trọng. Đây là những nghịch lý không thể chấp nhận được đối với một đất nước có đầy tiềm năng như Việt Nam; trong khi đó, nhìn ra thế giới, những nước có điều kiện tự nhiên vô cùng kém thuận lợi so với Việt Nam lại có nền nông nghiệp rất phát triển như Nhật Bản, Israel. Ngay khi so với các nước cùng phát triển thì thu nhập của người nông dân Việt Nam thấp hơn nhiều so với Thái Lan. "Phi nông bất ổn", nông nghiệp chính là ngành tạo ra sự ổn định, làm nền tảng cho đất nước phát triển; tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các mô hình nông nghiệp hàng đầu thế giới, và tiềm năng của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể làm được nhiều hơn thế, tạo nên một ngành nông nghiệp Việt Nam hàng đầu thế giới.
Sức cạnh tranh của nền công nghiệp chúng ta cũng có rất nhiều vấn đề. Công nghiệp nặng không hiệu quả, công nghiệp nhẹ chủ yếu là gia công, hàm lượng khoa học công nghệ thấp tạo ra giá trị gia tăng rất thấp. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO báo hiệu sẽ gây ra nhiều tác động lớn đến các lĩnh vực dệt may, chế biến nông hải sản,... đòi hỏi công nghiệp phải có những bước chuyển mình căn bản hơn nữa, tốc độ cao hơn nữa. Chúng ta cần thoát khỏi nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp, trở thành một đất nước chuyên xuất thô và cung cấp lao động phổ thông giá trị thấp; nguy cơ phá sản cả một ngành, một lĩnh vực kinh doanh.
Để không ngừng nâng cao và phát triển sức cạnh tranh cho nền kinh tế, Việt Nam cần có một nguồn năng lượng phù hợp và chủ động. Việc hoạch định và thực thi một chiến lược quốc gia dài hạn về năng lượng là một yêu cầu bức thiết. Trong đó, phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản là hướng đến khai thác bền vững những nguồn tài nguyên là thế mạnh của Việt Nam như tài nguyên nước, than đá, dầu mỏ...; sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn nguyên liệu hiện có, khắc phục tình trạng lãng phí, chảy máu tài nguyên nhiên liệu.
Chúng ta cần phải biết khai thác tốt những lợi thế mà thiên nhiên ban tặng cho Việt Nam. Do vậy, ngành du lịch sẽ là một trong những trọng tâm để phát triển, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch văn hóa.
Trong một thời gian dài vừa qua, chúng ta chưa thực sự chú ý tới việc phát triển lợi thế của kinh tế biển. Thảm họa bão Chanchu chính là một lời cảnh báo cho sự quan tâm dưới mức cần thiết đối với một lĩnh vực có thể mang lại giá trị kinh tế cao, nâng cao vị thế của quốc gia như kinh tế biển.
Thương mại và dịch vụ chính là lĩnh vực sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất khi Việt Nam gia nhập WTO, khi thị trường trong nước nhanh chóng được mở cửa tự do. Đặc biệt là ngành thương mại, phân phối hàng hóa, đó chính là động mạch chủ của nền kinh tế nước nhà. Chúng ta cần chung sức tạo nên những hệ thống phân phối mạnh phục vụ cho lợi ích của Việt Nam. Cần giữ vững sự tự chủ trong các ngành ngân hàng, đầu tư, bảo hiểm, viễn thông, công nghệ thông tin, giao nhận và vận chuyển hàng hóa; bởi đó cũng là những động mạch quan trọng của nền kinh tế nước nhà.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp, nông nghiệp, và các ngành thương mại và dịch vụ tiên tiến cao, cần phải phát triển khoa học kỹ thuật. Cả nông nghiệp và công nghiệp đều phải dựa trên những công nghệ phù hợp và tiên tiến để phát triển, trong đó công nghệ sẽ là ưu tiên hàng đầu, đó là phù hợp với điều kiện Việt Nam, tiên tiến để có thể đi tắt đón đầu. Chúng ta sẽ tạo ra bước đột phá trong công nghệ bằng một hành động rất đơn giản mà hiệu quả là ngay lập tức gắn kết những viện nghiên cứu khoa học và nghiên cứu ứng dụng; từng bước tham gia vào thị trường sở hữu trí tuệ của khu vực và quốc tế; đặt mục tiêu chiến lược phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tri thức đang vận động ngày một nhanh.
Như vậy, việc tạo nên những liên kết nội ngành, liên ngành là một nội dung quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước. Hơn nữa, cần phải ý thức rằng, liên kết không chỉ đơn thuần là tạo ra các liên minh lớn hơn trong nước mà phải hướng đến hiệu quả đích thực, phải xem xét đến việc liên kết chiến lược để hấp thu tinh hoa quản trị, bí quyết công nghệ, lợi thế tài chính của nước ngoài, nhưng vẫn giữ được sự tự chủ trong phát triển.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đòi hỏi chúng ta phải mở rộng nhiều thị trường hơn cho tất cả các hàng hóa mà Việt Nam chế tạo ra hoặc trồng trọt được. Do vậy, vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại là rất quan trọng, đòi hỏi ngay lập tức phải có cách nghĩ khác, cách làm khác, thiết thực hơn, hiệu quả hơn. Theo đó, mục tiêu và thành quả của các tổ chức xúc tiến thương mại phải gắn liền với nhu cầu và phục vụ đầy đủ, nhiệt tình, chi tiết những nhu cầu chính đáng của mọi doanh nghiệp trong nước. Đổi lại, doanh nghiệp Việt Nam phải nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng nhất là phải giới thiệu, phát triển bằng đường hàng hóa và văn hóa của nước nhà trên thị trường thế giới.
Một lần nữa vai trò của nhà nước, đặc biệt là vai trò điều hành, thực thi pháp luật của Chính phủ ngày càng trở thành một nhân tố cốt yếu để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chúng ta cần có một chính phủ hiệu quả hơn dựa trên nền tảng nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước sẽ phải hiệu quả hơn trong các lĩnh vực quan trọng như: đối ngoại, hoàn thiện tổ chức, chống tham nhũng, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần thiết phải có những hoạt động thiết thực và hiệu quả hơn nữa để giáo dục pháp luật, nghĩa vụ công dân đến toàn thể đồng bào.
Trong quá trình gia nhập WTO chúng ta sẽ phải mau chóng dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho hàng nhập khẩu. Vậy nếu muốn đảm bảo, duy trì và phát triển nội lực kinh tế của nước nhà, nhà sản xuất trong nước phải mau chóng tự hoàn thiện mình, đáp ứng tốt nhất người tiêu dùng trong và ngoài nước. Đồng thời, cộng đồng người tiêu dùng Việt Nam phải ý thức được việc ủng hộ ngành sản xuất, thương mại, dịch vụ trong nước là trách nhiệm và vinh dự của một người công dân Việt Nam. Chúng ta hợp sức tạo ra một vài thương hiệu Việt, doanh nghiệp Việt, tập đoàn kinh tế Việt mang tính tiên phong, đủ sức cạnh tranh ở tầm mức khu vực và thế giới, nhằm tạo ra điển hình, khơi dậy niềm tin, khát vọng, lòng tự hào của toàn thể dân tộc trong sự nghiệp thi đua phát triển kinh tế với thế giới.
Để có thể thực hiện toàn bộ những lộ trình tốt đẹp nêu trên, yếu tố con người là then chốt. Chúng ta phải nhanh chóng "nâng cấp" người Việt Nam lên cả về thể chất lẫn tri thức; vật chất lẫn tinh thần.
Chúng ta cần phải đảm bảo việc chăm sóc y tế, nâng cao sức mạnh thể chất của người dân Việt Nam như một yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng nhất của y tế không phải là khám chữa bệnh, mà là phát triển thể chất Việt Nam. Để thực hiện được điều đó, chúng ta phải tuyên truyền, vận động, và tổ chức các hình thức y tế, sức khỏe cộng đồng; đưa kiến thức phòng bệnh, chữa bệnh đến toàn dân. Đó là bước đầu tiên và cơ bản nhất của việc xã hội hóa ngành y tế. Bước tiếp theo mới là huy động các nguồn lực ở trong dân, trong ngành, và của quốc tế để mở ra nhiều hơn nữa những bệnh viện, trạm xá nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh. Phối hợp với các tổ chức y tế thế giới, trong khu vực để giải quyết các vấn đề dịch họa toàn cầu như đại dịch HIV/AIDS, dịch cúm gia cầm,...
Với xu hướng phục hưng của các giá trị văn hóa Á Đông, xu hướng tiêu dùng các sản phẩm tự nhiên; cộng với truyền thống và tinh hoa hàng ngàn năm của nền y học cổ truyền nước nhà; chúng ta hoàn toàn có đủ những điều kiện cần thiết để phát triển ngành y học cổ truyền dân tộc thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, vừa góp phần nâng cao tố chất của dân tộc, vừa góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa, vừa tạo ra những sản phẩm - dịch vụ độc đáo của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Chúng ta cần thật sự thực hiện phương châm "giáo dục là quốc sách hàng đầu", thực hiện lời dạy "vì lợi ích trăm năm trồng người" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng nên một nền giáo dục có tính toàn diện: từ thể chất, đến tinh thần, đạo đức, và tri thức; giáo dục toàn dân: xã hội hóa giáo dục; và một nền giáo dục trọn đời, một xã hội học tập. Chúng ta cần phải nhanh chóng khắc phục những yếu kém trầm kha nhiều năm qua của nền giáo dục nước nhà. Đảng, Nhà nước, và toàn thể cộng đồng hãy cùng hưởng ứng thiết thực phong trào xóa bỏ tiêu cực trong giáo dục, tôn vinh giá trị thực học. Chúng ta phải phát huy truyền thống cần cù, thông minh, hiếu học của dân tộc; biến đó thành một lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức. Trở lại lịch sử, ngay từ thế kỷ thứ 18 nhà bác học Lê Quý Đôn đã có một nhận xét hết sức đúng đắn "Phi nông bất ổn, phi thương bất hoạt, phi công bất phú, phi trí bất hưng". Như vậy, cha ông ta đã ý thức rất rõ tri thức sẽ đóng vai trò quyết định đến sự hưng thịnh và hùng mạnh của quốc gia. Điều đó chúng ta hoàn toàn có thể làm được.
Một đất nước phát triển bền vững khi vật chất ngày một sung túc, các giá trị đạo đức tinh thần ngày được bồi đắp. Một xã hội chỉ biết chạy theo những giá trị vật chất sẽ là một xã hội hỗn loạn, bất ổn; là môi trường tốt cho nhiều tệ nạn xấu xa và nguy hiểm phát sinh và hoành hành. Chúng ta cần đoàn kết, huy động trách nhiệm và nỗ lực của toàn dân tộc, của cả cộng đồng quốc tế để đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống tiêu cực, tham nhũng, chống các hành vi làm băng hoại đạo đức xã hội. Đoàn kết để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, khắc phục hậu quả của thiên tai, dịch họa tại Việt Nam cũng như trên thế giới, thể hiện rõ nét truyền thống nhân đạo, tương thân, tương ái của dân tộc.
Chúng ta hoàn toàn nhận thức rõ trách nhiệm phát triển một nền văn hóa Việt Nam, tiên tiến, giữ được bản sắc dân tộc sẽ vừa là động lực vừa là phương pháp để phát triển kinh tế đất nước. Nói cách khác, phát triển kinh tế phải song song với phát triển xã hội, phải biết chắt lọc, sắp xếp, gắn kết và giới thiệu các giá trị văn hóa Việt Nam vào với các hoạt động kinh tế kinh doanh. Cùng với xu hướng trỗi dậy của các giá trị văn hóa châu Á, được minh chứng bằng con đường và thành tựu phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ,... chúng ta hoàn toàn có khả năng và cần thiết phải tạo ra các sản phẩm, thương hiệu có giá trị cao, mang trong mình giá trị văn hóa Việt. Ngược lại, chính những thành tựu kinh tế sẽ là nguồn lực, làm điều kiện để giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tổng kết lại, chúng ta đang hội đủ những điều kiện bên trong lẫn bên ngoài để có thể chung tay đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước trở nên hùng mạnh, đóng góp vào sự phát triển hòa bình và thịnh vượng của toàn thể nhân loại. Để có được cơ hội này, chúng ta luôn biết ơn những sự hy sinh của cha ông từ ngàn đời nay mới có thể tạo nên vận hội to lớn để chúng ta tiếp bước, chúng ta phải luôn hiểu được trách nhiệm của mình đối với thế hệ tương lai của đất nước. Vậy nên, chúng ta một lần nữa sẽ phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, nhân ái của dân tộc để tự tin vững bước khẳng định mình trong thế giới toàn cầu hóa vì sự phát triển của mỗi cá nhân, của quốc gia, của dân tộc, và sự tiến bộ chung của toàn thể nhân loại.
N.V.H
 (Theo_Thanh_Nien)

Vài nét về chính sách an sinh xã hội ở Phần Lan

An sinh xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia và được coi là một công cụ để xây dựng một xã hội phát triển. Mô hình an sinh xã hội Bắc Âu, trong đó có Phần Lan, thường được nhắc tới như sự cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội.
Hướng tới hệ thống an sinh xã hội “bao bọc” người dân
Không giống như hệ thống an sinh xã hội của Mỹ và phần lớn các nước Tây Âu, hệ thống an sinh xã hội ở các nước Bắc Âu bao bọc toàn bộ dân cư, và đặc biệt, không giới hạn đối với những nhóm người yếu thế không có khả năng tự chăm sóc bản thân mình. Chẳng hạn, tất cả mọi người đến một độ tuổi nhất định đều có lương hưu mà không phụ thuộc vào việc họ có tích lũy cho kế hoạch lương hưu hay không; hoặc kế hoạch chăm sóc sức khỏe quốc gia dựa trên nhu cầu chăm sóc y tế nhiều hơn là mục tiêu tài chính. Thêm vào đó, công dân của các nước Bắc Âu có quyền pháp lý đối với lợi ích được cung cấp. Chính sách này được thiết kế để đáp ứng như một trách nhiệm tập thể nhằm bảo đảm cho mọi người dân có một cuộc sống xứng đáng.
Hướng tới mô hình an sinh xã hội Bắc Âu, mà theo đánh giá của nhà xã hội học Phần Lan Erisk Allardt, là khá toàn diện, hệ thống an sinh xã hội (giáo dục, y tế, phúc lợi) của Phần Lan được hình thành trong 3 thập niên đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh và được đánh giá là một trong những hệ thống an sinh xã hội rộng rãi nhất thế giới.
Kế hoạch hưu trí của Phần Lan được hình thành từ năm 1937, nhưng do khi đó còn là nước nghèo nên đến năm 1957, chính phủ Phần Lan thiết lập một kế hoạch lương hưu cải thiện tạo cơ sở để hình thành Luật Hưu trí quốc gia. Vào đầu thập niên 60, kế hoạch lương hưu được bổ sung thêm quỹ lương hưu tư nhân. Trợ cấp thất nghiệp được hình thành vào năm 1959 và 1960, đổi mới vào năm 1972. Trong những thập niên 50 và 60, việc xây dựng mạng lưới bệnh viện, giáo dục nhân sự về y tế được thực hiện nhiều hơn. Hệ thống trợ cấp nhà ở được mở rộng trong thập niên 60, hướng tới toàn bộ dân cư. Từ năm 1963 tới đầu thập niên 70, hệ thống bảo hiểm sức khỏe được thiết lập. Các quan chức y tế bắt đầu nhấn mạnh đến các bệnh viện địa phương nhỏ hơn.
Vào thập niên 80, chi phí xã hội ở Phần Lan chiếm khoảng 24% GDP, so với Thụy Điển, Đan Mạch và Na Uy tương ứng là 35%, 30% và 22% GDP. Chưa tới 10% chi phí này do những người lao động trả, phần còn lại do nhà nước và chủ lao động trả. Cuối thập niên 80, Bộ Quan hệ xã hội và Sức khỏe định hướng hệ thống phúc lợi thông qua năm vụ: Bảo hiểm xã hội, Phúc lợi xã hội, Y tế, Chính sách chất cồn và điều độ, và Lao động. Trong chính sách xã hội, có 3 ban chủ yếu chịu trách nhiệm về phúc lợi xã hội, y tế và bảo hộ lao động. Các quan chức cấp tỉnh giám sát các chính quyền địa phương - các chính quyền tự trị - cung cấp chăm sóc xã hội. Đầu thập niên 80, nhà nước chi trả 30% cho lương hưu và các dịch vụ xã hội, chủ lao động trả 40%, chính quyền địa phương 15% và người nhận dịch vụ trả phần còn lại. Mọi người dân ở Phần Lan không phải trả tiền cho giáo dục ở bất kỳ mức học nào, kể cả khi theo học trường y hay trường luật. Người về hưu ở Phần Lan được chăm sóc tốt, còn người thất nghiệp được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp cao.
Có thể nói, đến thập niên 80 - chỉ hơn 30 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, từ một nước còn nghèo, hệ thống an sinh xã hội Phần Lan đã có những tiến bộ vượt bậc để đạt tiêu chuẩn an sinh xã hội rất cao của các nước Bắc Âu. Các đảng chính trị lớn ở đất nước này đều cam kết duy trì mô hình an sinh xã hội này, góp phần đưa xã hội Phần Lan phát triển vững chắc hơn trong những thập niên tiếp theo.
Hệ thống an sinh xã hội Phần Lan cung cấp cho người dân những gì?
Các chương trình an sinh xã hội: Giống như các nước Bắc Âu khác, Phần Lan chia phần lớn các chương trình an sinh xã hội thành các chương trình bảo đảm an sinh thu nhập và các chương trình cung cấp dịch vụ sức khỏe và xã hội. Nguồn thu của các chương trình an sinh xã hội gồm có hai lĩnh vực là: bảo hiểm xã hội, bảo đảm thu nhập cho người già, ốm đau, phụ nữ có thai, người thất nghiệp, hoặc bị thương tật liên quan đến lao động; và an sinh thu nhập được phân thành các loại như phúc lợi, bao gồm chuyển thu nhập để trợ cấp cho các gia đình thông qua các biện pháp như trả cho trẻ em, trợ cấp người mẹ, trả cho nạn nhân chiến tranh và gia đình họ, trợ cấp tài chính cho những người tàn tật hoặc có nhu cầu bức thiết. Các chương trình của bảo hiểm xã hội, chiếm tới 80% quỹ phúc lợi xã hội.
Lương hưu: Vào cuối thập niên 80, Luật Hưu trí quốc gia được cải cách nhằm mở ra cơ hội cho tất cả mọi người ở độ tuổi trên 16 tuổi. Thậm chí người nước ngoài ở Phần Lan, dù không phải là người có nguồn gốc Bắc Âu, cũng được hưởng lợi từ luật này nếu đã định cư ở Phần Lan trong thời gian ít nhất là 5 năm. Độ tuổi được hưởng lương hưu là 65 tuổi, và dao động trong độ tuổi từ 50 đến ngoài 60 nếu như người đó nằm trong trường hợp bị thất nghiệp lâu ngày. 
Năm 1961, Luật Lương hưu cho người lao động được ban hành để bổ sung cho Kế hoạch lương hưu quốc gia, vốn phù hợp với người dân nông thôn (chiếm đa số cho tới thập niên 60), nhưng không đủ cho người dân thành phố. Trong thập niên 70, các kế hoạch lương hưu liên quan đến lương bắt buộc khác được ban hành thành luật cho những lao động tạm thời, cho những người tự kinh doanh... Cuối thập niên 70, một kế hoạch lương hưu bổ sung được ban hành cho nông dân. Vào năm 1986, những người làm nghề tự do chẳng hạn như nhà văn, diễn viên cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật này. Những kế hoạch lương hưu này do chủ lao động, tư nhân hoặc xã hội chi trả. Viện An ninh lương hưu Trung ương chịu trách nhiệm báo cáo về tình trạng việc làm và thu nhập.
Bảo hiểm ốm đau: Luật Bảo hiểm ốm đau ra đời vào năm 1963 nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho người dân Phần Lan. Luật quy định tất cả công dân đều được bảo hiểm khi đau ốm. Các hệ thống chăm sóc sức khỏe ở bệnh viện và trung tâm y tế đều miễn phí. Phụ nữ khi sinh đẻ được thanh toán trung bình khoảng 80% thu nhập trong thời gian 1 năm. Người sống độc thân có 1 con được thanh toán 92% thu nhập khi ốm đau, trong khi người độc thân không có con được thanh toán 77% thu nhập. Đối với những gia đình có cả vợ chồng và con, mức thanh toán bảo hiểm khi ốm đau là khoảng 90% thu nhập thực tế. Quỹ bảo hiểm ốm đau chủ yếu do nhà nước chi trả; người nhận trả thông qua 2% thuế thu nhập, chủ sử dụng lao động trả 1% lương của người lao động. 
Bảo hiểm thất nghiệp: Năm 1984, Phần Lan cải cách Luật An sinh thất nghiệp, trong đó tất cả công dân Phần Lan từ 17 đến 64 tuổi đều được hưởng bảo hiểm khi thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp cho những người đang tìm việc làm là 70 Fmk/ngày và người thất nghiệp được hưởng trợ cấp này ít nhất là 500 ngày trong giai đoạn 4 năm. Những người gần 60 tuổi không có khả năng tìm việc có thể được trợ cấp thất nghiệp tương đương với một mức lương tàn tật cho tới khi họ đến tuổi được nhận lương hưu. Giới chủ và nhà nước đóng góp 95% cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong khi người lao động chỉ phải đóng 5%.
Trợ cấp gia đình được thực hiện dưới nhiều hình thức. Các bậc cha mẹ được nhận thông tin, hỗ trợ, tư vấn cha mẹ và sức khỏe, tiêm chủng trước và sau khi sinh con từ các bệnh viện chăm sóc sức khỏe của nhà nước. Các bệnh viện này cũng giám sát về thể lực, thần kinh và điều kiện xã hội của trẻ em và thu thập số liệu phục vụ cho các mục tiêu sức khỏe cộng đồng.
Việc trợ cấp cho các gia đình có trẻ em được bảo đảm dưới hình thức trợ cấp cho trẻ em, chăm sóc trẻ em, trợ cấp nuôi dưỡng và trợ cấp cho người mẹ. Hình thức trợ cấp trẻ em có từ thập niên 30 và là một phần sớm nhất của hệ thống phúc lợi. Luật Trợ cấp trẻ em có từ năm 1948, trợ cấp cho gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi là công dân cư trú ở Phần Lan, không phụ thuộc vào thu nhập hoặc quốc tịch của cha mẹ. Trợ cấp trẻ em được trả cho cha mẹ phải ở nhà chăm sóc con nhỏ hoặc phải thuê người làm việc đó.
Dịch vụ chăm sóc trẻ em: theo luật, các trung tâm chăm sóc cộng đồng cho các gia đình Phần Lan là hình thức phổ biến với mức phí thấp. Chất lượng cao của các trung tâm này (nhân viên được đào tạo tại các trường đại học về giáo dục trẻ em) làm cho phụ nữ Phần Lan yên tâm làm việc hơn.
Luật có hiệu lực lâu dài là Luật Chăm sóc trẻ hàng ngày năm 1973, quy định tất cả các chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ hàng ngày tốt nhất cho tất cả các gia đình có nhu cầu. Các trung tâm chăm sóc hàng ngày hoặc tư nhân chăm sóc trẻ em đến 7 tuổi được điều hành bởi chính quyền địa phương hoặc do sự ủy nhiệm của những người trông trẻ, tại gia đình của trẻ hoặc ở nơi khác. Luật Phúc lợi trẻ em năm 1983 quy định các chính quyền địa phương chăm sóc trẻ em, và cho quyền thực hiện các biện pháp đa dạng nếu một em bé bị bỏ rơi hoặc lạm dụng. Giữa thập niên 80, khoảng 2% trẻ em Phần Lan được luật này bao bọc. Một đạo luật khác năm 1983 quy định, nhục hình với trẻ em là bất hợp pháp. Đạo luật này cũng phổ biến ở các nước Bắc Âu.
Dịch vụ cho người tàn tật: Phúc lợi được quy định trong Đạo luật đối với người tàn tật năm 1946 quy định trách nhiệm điều trị cho những người tàn tật. Các cơ sở cung cấp nhà ở, đào tạo nghề, môi trường làm việc và phục hồi sức khỏe cho những người tàn tật hoạt động dưới sự giám sát của Ban Phúc lợi xã hội quốc gia, còn Ban Trường học quốc gia giám sát các trường dành cho trẻ em tàn tật. Các thiết bị đặc biệt, như chân tay giả... được cung cấp miễn phí.
Hệ thống y tế: vào nửa sau thập niên 80, người dân Phần Lan được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe như ở các nước phát triển cao. Luật Chăm sóc sức khỏe 1972 đã tạo điều kiện cho sự ra đời của khoảng 2.000 trung tâm y tế địa phương, mỗi trung tâm phục vụ tối thiểu 10.000 người. Mục tiêu cơ bản của Luật 1972 là tạo điều kiện cho tất cả người dân Phần Lan tiếp cận bình đẳng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không tính đến thu nhập hoặc nơi họ sinh sống. Do phần lớn dịch vụ của các trung tâm y tế không phải trả phí, nên chính quyền trung ương hỗ trợ để tăng nguồn tài chính cho các chính quyền địa phương. Sự hỗ trợ này chiếm khoảng từ 30% đến 65% chi phí khám chữa bệnh. Giữa thập niên 80, khoản chi phí dành cho chăm sóc sức khỏe cơ bản là 40%, so với 10% năm 1972. Phần lớn các trung tâm y tế có ít nhất 3 bác sỹ và khoảng 7 nhân viên trên 1 bác sỹ. Do được đào tạo nghiệp vụ cao, các y tá có trình độ tương đương bác sỹ ở nhiều nước khác. Phần lớn các trung tâm đều có các bà đỡ có nghiệp vụ cao kết hợp với chương trình chăm sóc trước khi sinh tăng cường, khiến cho tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở Phần Lan rất thấp, chỉ có 6,5 trên 1.000 trẻ. Giữa thập kỷ 80, các bệnh viện công có khoảng 50.000 giường, 40 bệnh viện tư nhân có khoảng 3.000 giường. Có thêm 20.000 giường cho bệnh nhân tại các trung tâm y tế, viện dưỡng lão và các cơ sở phúc lợi khác.    
Mặc dù việc duy trì một hệ thống phúc lợi cao, qua một thời gian thực hiện cũng bộc lộ những mặt trái của nó, tuy nhiên trong thế giới hiện nay, những ưu việt mà hệ thống an sinh xã hội ở các nước Bắc Âu, trong đó có Phần Lan mang lại cho người dân, góp phần tạo nên một môi trường sống khá thanh bình nơi đây, là những kinh nghiệm quý, rất đáng tham khảo./.
Theo Tạp chí cộng sản

An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

TCCSĐT - Để góp phần chuẩn bị Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), ngày 13-3-2012, tại Hà Nội, Tạp chí Cộng sản chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học - thực tiễn “An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. TCCSĐT trân trọng giới thiệu Báo cáo Đề dẫn hội thảo của PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản.


Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã “bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình”(1) và tiếp tục đẩy mạnh “công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”(2). Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đồng thời “thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”(3). Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước, bởi vì việc chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam. Và hiện nay, chúng ta đang phấn đấu đến năm 2020 hệ thống an sinh xã hội sẽ bao phủ khắp toàn dân.

An sinh xã hội là một vấn đề rất rộng, do vậy trước khi thảo luận, chúng ta cần thống nhất một số điểm có tính phương pháp luận:
1. An sinh xã hội và cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội
Do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp cận nên giới nghiên cứu lý luận, cũng như những nhà chỉ đạo thực tiễn hiện có nhiều cách hiểu về an sinh xã hội. Tổng hợp các ý kiến, có thể khái quát, phạm trù an sinh xã hội thường được đề cập đến ở hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng: an sinh xã hội là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp,
an sinh xã hội là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai địch họa...
Bản chất của an sinh xã hội là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên xã hội trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay gặp phải những rủi ro khác. Chính sách an sinh xã hội là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội
.
Chính sách bảo đảm an sinh xã hội
là hệ thống các chính sách can thiệp của Nhà nước (bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội...) và sự hỗ trợ của tổ chức hay tư nhân (các chế độ không theo luật định) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân và cộng đồng trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội.

Về cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội: có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế, thì một hệ thống an sinh xã hội phải có tối thiểu 3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng chính của an sinh xã hội, gồm:

Thứ nhất, những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro. Đây là tầng trên cùng của hệ thống an sinh xã hội. Chức năng của những chính sách này là hướng tới can thiệp và bao phủ toàn bộ dân cư; giúp cho mọi tầng lớp dân cư có được việc làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó tốt nhất với rủi ro. Trụ cột cơ bản của tầng này là những chính sách, chương trình về thị trường lao động tích cực như đào tạo nghề; hỗ trợ người tìm việc, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động.

Thứ hai, những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi ro. Đây là tầng thứ hai, gồm các chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro của hệ thống an sinh xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng. Nội dung quan trọng nhất trong tầng này là các hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, v.v... Nhóm chính sách này rất nhạy cảm, nếu phù hợp sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm nguồn lực cho Nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. Ngược lại, nếu chính sách không phù hợp, người dân sẽ không tham gia hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng.

Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro, bao gồm các chính sách, chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội. Đây là tầng cuối cùng của hệ thống an sinh xã hội với chức năng bảo đảm an toàn cho các thành viên xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như: thất nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo...

Ở Việt Nam, cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội gồm 5 trụ cột: 1) Bảo hiểm xã hội; 2) Bảo hiểm y tế; 3) Bảo hiểm thất nghiệp; 4) Cứu trợ xã hội; 5) Trợ giúp và ưu đãi xã hội. Xét về thực chất, năm trụ cột này là nhằm thực hiện 3 chức năng chiến lược của hệ thống an sinh xã hội: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro. So với mô hình phổ biến trên thế giới, hệ thống an sinh xã hội ở nước ta có một cấu phần đặc thù, đó là chính sách ưu đãi xã hội. Chính sách này nhằm thực hiện mục tiêu cao cả là đền ơn, đáp nghĩa đối với sự hy sinh, công lao đặc biệt và cống hiến to lớn của những người có công với cách mạng, với đất nước; thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội chăm lo, bảo đảm cho người có công có cuộc sống ổn định và ngày càng được cải thiện.
2. Kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội và những thách thức đang đặt ra đối với quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam
2.1. Kết quả tích cực
Thực hiện đường lối Đổi mới, trong hơn 25 năm qua, công tác bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống an sinh xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. An sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn nhóm xã hội bị loại trừ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.

Về mặt thể chế, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định và triển khai nhiều chính sách an sinh xã hội quan trọng, huy động được nhiều nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp cho các đối tượng (người dân tộc thiểu số, người nghèo, người già cô đơn, trẻ em và các đối tượng dễ bị tổn thương) vươn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp các đối tượng thụ hưởng tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở,...; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị trường, tín dụng, việc làm; (3) Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phương phục vụ người dân tốt hơn.

Đến nay công tác bảo đảm an sinh xã hội đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm 2011); chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728 (năm 2011), xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới; năm 2011 nước ta đã hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.

Hệ thống pháp luật về an sinh xã hội ngày càng hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Hệ thống bảo hiểm xã hội được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế), bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,7 triệu (năm 2011). Sau gần 3 năm triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Năm 2011 có khoảng 7,6 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo, v.v..

Hệ thống chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Mức trợ cấp ưu đãi năm 2010 tăng 2,2 lần so với năm 2006. Thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.

Các chính sách trợ giúp xã hội (thường xuyên và đột xuất) được thực hiện rộng hơn cả về quy mô và đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỉ đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỉ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010). Hằng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỉ đồng và hàng chục nghìn tấn lương thực, thuốc men, chủ yếu để trợ giúp khắc phục thiên tai.

Các phong trào “Tương thân, tương ái”, “Quỹ vì người nghèo“, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” được tổ chức thường xuyên và thu hút sự hưởng ứng của nhiều lực lượng xã hội, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao an sinh xã hội cho mọi người, nhất là những người nghèo, vùng nghèo.
2.2. Hạn chế và thách thức
Đến nay, công tác bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, người dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu nghèo, phân hóa giữa các vùng miền có xu hướng mở rộng. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực để thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khả năng cân đối giữa nguồn và sử dụng của hệ thống an sinh xã hội, kể cả các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ bảo trợ xã hội còn hạn chế và gặp thách thức lớn cả trước mắt, cũng như trong trung và dài hạn. Các quỹ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là quỹ bảo hiểm y tế ở trong tình trạng báo động trong tương lai gần. Nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội của Nhà nước khó đáp ứng được yêu cầu an sinh xã hội ngày càng tăng của người dân, trong khi đó huy động từ các nguồn khác, đặc biệt từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là vùng nông thôn. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn xảy ra không ít tiêu cực, phiền hà. Một số chính sách an sinh xã hội còn tồn tại những bất hợp lý; chưa có các chính sách an sinh xã hội đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Chất lượng cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng mức sống của dân cư. Hệ thống hành chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ an sinh xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình an sinh xã hội.
Những hạn chế trên đây đã đặt hệ thống an sinh xã hội của nước ta trước nhiều thách thức lớn, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh chính sách để vượt qua. Cụ thể là:
Thứ nhất,
trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề an sinh xã hội bức xúc, mới phát sinh chưa được giải đáp một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật pháp về an sinh xã hội theo mô hình hiện nay không theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và tiến trình hội nhập quốc tế.

Thứ hai, cùng với sự phát triển thì các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có xu hướng tăng. Là nước đang phát triển với điều kiện địa - tự nhiên, địa - kinh tế đặc thù, nên Việt Nam rất dễ gặp phải rủi ro, ảnh hưởng đến sinh kế và thu nhập của người dân. Trong khi đó, do nguồn lực còn hạn chế, nên chúng ta chưa thật chủ động bảo đảm an sinh xã hội cho đông đảo dân cư.

Thứ ba, xu thế già hóa dân số đang và sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống an sinh xã hội hiện hành và trong tương lai, sẽ tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế, bảo hiểm xã hội, các dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi.

Thứ, mức đóng, mức hưởng bảo hiểm xã hội còn chưa hợp l‎ý, chưa bảo đảm cuộc sống cho các đối tượng thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách an sinh xã hội còn nhiều bất cập.

Thứ năm, những rủi ro kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và có diện ảnh hưởng rộng. Tác động tiêu cực của những “cú sốc khó lường trước” từ bên ngoài, như khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh... đến quốc kế dân sinh ngày càng nhanh và mạnh. Trong khi đó chúng ta lại chưa có nhiều kinh nghiệm phòng, chống rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa và còn hạn chế về nguồn lực dành cho các hoạt động phòng, chống rủi ro.

Thứ sáu, sự phân hóa nhanh, mạnh trong nền kinh tế thị trường, đã làm cho các nhóm xã hội yếu thế ngày càng trở nên yếu thế hơn và dễ bị tổn thương hơn do hạn chế về khả năng cạnh tranh, khả năng phòng ngừa rủi ro trên thương trường. Các dòng di chuyển việc làm, di chuyển lao động diễn ra với cường độ ngày càng mạnh, tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm quyền và cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách an sinh của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương.

Như vậy, các nhóm đối tượng của an sinh xã hội sẽ ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đa lớp, linh hoạt và đủ khả năng thực hiện những mục tiêu an sinh xã hội chủ yếu đến năm 2015, như Nghị quyết  Đại hội XI của Đảng đề ra là: “Tạo bước tiến bộ rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân... Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động... Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm"(4). Để đạt được những mục tiêu đó, cần  khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội lành mạnh, đủ khả năng thực hiện các chức năng của mình.
3. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu đổi mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội
Trên cơ sở xem xét thực trạng hệ thống an sinh xã hội hiện hành, bối cảnh kinh tế - xã hội đất nước và kinh nghiệm quốc tế, cần xác định một số quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu đổi mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội của nước ta như sau:
3.1. Quan điểm
Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn các chính sách an sinh xã hội với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực tăng trưởng kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội.

Không ngừng đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện vật chất, tài chính làm bệ đỡ cho cho hệ thống an sinh xã hội.

Chọn phát triển mô hình an sinh xã hội dựa trên quan điểm của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) với các bộ phận cấu thành là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Đây là mô hình phù hợp với chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta coi: con người là động lực, mục tiêu của sự phát triển.

Từng bước xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách an sinh xã hội mang tính toàn dân, mở rộng khả năng tiếp cận và diện bao phủ, bảo đảm người dân có mức sống tối thiểu, có khả năng liên kết, chống đỡ thành công trước rủi ro.

Chú trọng phát triển hệ thống an sinh xã hội đối với khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số, các đối tượng bị tác động bởi cải cách kinh tế và xã hội, như lao động di cư, người thuộc diện thu hồi đất, bị tác động bởi khủng hoảng, người có công, trẻ em, người già, người tàn tật...

Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện an sinh xã hội, đồng thời mở rộng sự tham gia của cộng đồng xã hội vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội dưới hình thức xã hội hóa.

Từng bước phát triển các chính sách an sinh xã hội với nội dung, cách tiếp cận và chuẩn mực quốc tế; huy động sự liên kết, hợp tác khu vực và quốc tế thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người lao động trong bối cảnh di chuyển lao động quốc tế ngày càng mạnh mẽ.
3.2. Mục tiêu, yêu cầu
Bảo đảm để mọi người dân có quyền và được tiếp cận hệ thống an sinh xã hội, trong đó nhấn mạnh tính chia sẻ, tương trợ trong nội bộ và giữa các nhóm dân cư trong xã hội, hướng đến bảo đảm nhu cầu tối thiểu thông qua việc tổng hợp và tái phân phối nguồn lực.

Bảo đảm nguyên tắc công bằng và bền vững của hệ thống an sinh xã hội, về lâu dài cần gắn trách nhiệm và quyền lợi, giữa đóng góp với thụ hưởng, khuyến khích mọi người dân tham gia.

Tăng cường trách nhiệm của các chủ thể, khuyến khích mọi lực lượng xã hội tham gia xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội.
4. Những giải pháp trọng tâm để đổi mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội
Thứ nhất, thống nhất và từng bước nâng cao mức độ an sinh xã hội trong toàn xã hội.
Nhanh chóng thống nhất các chế độ bảo hiểm xã hội khác nhau dành cho đối tượng khác nhau, như cán bộ công chức, viên chức và người lao động ngoài nhà nước, lao động nông thôn thành một chế độ chung, nhằm xóa bỏ sự khác biệt giữa các khu vực, các đối tượng thụ hưởng bảo hiểm. Để thực hiện mục tiêu này, cần giải quyết hai vấn đề chủ yếu sau: (1) Chính quyền các cấp phải chủ động điều chỉnh thích hợp về lợi ích để hướng tới hình thành chế độ an sinh xã hội thống nhất trong phạm vi cả nước; (2) Sau khi thực hiện chế độ an sinh xã hội thống nhất, phải bảo đảm mức thụ hưởng an sinh xã hội vốn khá cao ở khu vực nhà nước không bị cắt giảm.
Thứ hai, ưu tiên phát triển sự nghiệp an sinh xã hội nông thôn và cho người lao động ngoài khu vực nhà nước.
Về xây dựng chế độ, hệ thống an sinh xã hội nông thôn và cho người lao động ngoài doanh nghiệp nhà nước gồm ba nội dung chủ yếu: một là, chế độ bảo hiểm xã hội cộng đồng nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu, bảo đảm đời sống cơ bản của người có thu nhập thấp; hai là, chế độ y tế cộng đồng, nhằm giải quyết vấn đề khám, chữa bệnh; ba là, chế độ bảo hiểm hưu trí, nhằm bảo đảm cuộc sống cho người cao tuổi. Hiện nay, chế độ bảo đảm mức sống tối thiểu đã được xây dựng, bước tiếp theo là mở rộng diện bao phủ, đáp ứng yêu cầu của đa số nhân dân. Đồng thời thu hẹp khoảng cách giữa mức bảo đảm đời sống tối thiểu ở thành thị và nông thôn, giữa người lao động trong khu vực nhà nước và người lao động ở khu vực ngoài nhà nước.
Thứ ba, xây dựng hệ thống bảo hiểm hưu trí nhiều tầng và nhiều trụ cột
Để ứng phó với tình trạng già hóa dân số toàn cầu, Báo cáo "Phòng chống nguy cơ già hoá: chính sách bảo vệ người cao tuổi và thúc đẩy tăng trưởng" của Ngân hàng Thế giới năm 2005 đã đề ra chế độ bảo đảm dưỡng lão nhiều tầng bậc. Việt Nam có thể tham khảo chế độ bảo đảm dưỡng lão này để xây dựng hệ thống an sinh xã hội nhiều tầng.

Để chủ động ứng phó với tình trạng già hóa dân số, cùng với biện pháp nêu trên, có thể xem xét điều chỉnh tuổi nghỉ hưu và thời hạn đóng bảo hiểm. Cần thực hiện nghiêm tuổi nghỉ hưu để giảm số người nghỉ hưu trước tuổi, nâng tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định.
Thứ tư, cải cách đồng bộ, giải quyết các vấn đề bức xúc về y tế
Sở dĩ vấn đề khám chữa bệnh khó và đắt tồn tại dai dằng, một phần là vì nhận thức chưa đầy đủ về tính đặc thù của dịch vụ y tế. Phương thức cải cách chế độ bảo hiểm y tế từ trước đến nay là đẩy bệnh viện ra thị trường, đẩy trách nhiệm huy động vốn của bảo hiểm cho cá nhân người tham gia bảo hiểm. Để tiến hành cải cách y tế thành công, cần nhận thức đúng bản chất, tính đặc biệt của dịch vụ y tế. Khác với các loại hàng hóa thông thường, dịch vụ y tế có ba đặc trưng: một là khó xác định được nhu cầu. Không ai có thể biết bao giờ bị ốm, mắc bệnh gì. Hai là thông tin không cân đối. Dịch vụ y tế là dịch vụ chuyên môn chuyên ngành, giữa bác sĩ và bệnh nhân thông tin không cân đối, giữa các bác sĩ cũng thường có ý kiến khác nhau đối với cách chữa bệnh. Ba là tính rủi ro lớn. Mỗi người chỉ sống một lần, quá trình sống không thể đảo ngược, khó có thể định giá sức
khoẻ của con người. Do tính đặc thù như vậy của dịch vụ y tế, nên thị trường không thể phát huy vai trò như đối với các loại hàng hóa thông thường. Vì vậy, vai trò của Nhà nước trong quản lý giá cả, chất lượng dịch vụ, thuốc chữa bệnh, bảo đảm việc cung cấp dịch vụ y tế cho người dân là đặc biệt quan trọng.

Giải pháp then chốt để giải quyết vấn đề khám chữa bệnh khó và đắt là thúc đẩy cải cách thể chế quản lý y tế, khôi phục tính công ích của các cơ sở khám, chữa bệnh, trọng điểm là cải cách mạng lưới cơ sở khám, chữa bệnh công. Điểm then chốt trong cải cách cơ sở khám, chữa bệnh công là bảo đảm tính công ích của bệnh viện, coi trọng kiểm soát giá cả và nâng cao chất lượng dịch vụ. Để khuyến khích bệnh viện và bác sĩ, chỉ dựa vào đạo đức nghề nghiệp là không đủ, mà còn phải xây dựng chế độ khuyến khích, bảo đảm bác sĩ có đãi ngộ tốt. Minh bạch hóa thu nhập của bác sĩ, phản ánh đúng giá trị của bác sĩ, đồng thời tăng cường giám sát quản lý, xử lý nghiêm những hành vi trái quy định.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và cơ chế chính sách liên quan đến công tác xóa đói, giảm nghèo. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền để người nghèo nâng cao nhận thức về hoàn cảnh và có quyết tâm thoát nghèo. Thường xuyên xây dựng, triển khai thực hiện các dự án và các chương trình hành động về công tác xóa đói, giảm nghèo. Các doanh nghiệp có chính sách dạy nghề và tạo việc làm ổn định cho người nghèo. Có cơ chế, biện pháp kiểm tra, giám sát bảo đảm mọi nguồn lực dành cho xóa đói, giảm nghèo được sử dụng đúng mục đích.

Thứ sáu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của an sinh xã hội đối với sự phát triển bền vững đất nước. Ở đây, cần nâng cao nhận thức không chỉ của các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền, mà còn của các tổ chức chính trị - xã hội, của chủ sử dụng lao động và bản thân người lao động, các tầng lớp dân cư trong xã hội về vai trò, vị trí của an sinh xã hội. Để thực hiện giải pháp này, công tác giáo dục, đào tạo, các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò đặc biệt quan trọng.

Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội một cách đồng bộ, đồng thời quyết liệt đưa các văn bản pháp luật vào cuộc sống. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, bổ sung, sửa đổi, hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện có trên cơ sở kế thừa và phát triển chính sách bảo đảm an sinh xã hội hiện hành, xem xét điều kiện kinh tế - xã hội và tham khảo kinh nghiệm của các nước. Cần bảo đảm tính đồng bộ giữa các chế độ an sinh xã hội, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, bảo đảm để mọi người dân đều có quyền hưởng an sinh xã hội. Tạo cơ chế để thực thi nghiêm chỉnh và có hiệu quả các chế độ, chính sách an sinh xã hội trên thực tế.

Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với công tác bảo đảm an sinh xã hội. Hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về an sinh xã hội, đề ra các quan điểm, chủ trương mới phù hợp với tình hình hiện nay. Nhà nước thực hiện pháp điển hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng bằng việc xây dựng hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch thực hiện an sinh xã hội. Chính quyền cấp cơ sở, các chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh thực hiện các văn bản pháp luật, các chương trình, kế hoạch an sinh xã hội. Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, các thiết chế tự quản của nhân dân đối với việc thực hiện pháp luật, chương trình, kế hoạch an sinh xã hội.
5. Những vấn đề cần tập trung thảo luận, trao đổi
Rất nhiều vấn đề mới và khó liên quan đến an sinh xã hội đang đặt ra, cần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và hoàn thiện chiến lược, chính sách an sinh xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Ban Tổ chức Hội thảo đề nghị các đồng chí đại biểu, các nhà khoa học tập trung thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chủ yếu sau:

Một là, làm rõ nội hàm của phạm trù an sinh xã hội. Kết cấu, các trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội nói chung, của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam nói riêng. Trong đó, thành tố, trụ cột nào là quan trọng nhất cần tập trung xây dựng và củng cố?

Hai là, những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước.

Ba là, những thành tựu, hạn chế, những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở nước ta sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới.

Bốn là, những quan điểm định hướng lớn, những giải pháp đột phá, khả thi cần thực hiện trong quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở nước ta hiện nay và đến năm 2020.

Với những nội dung chính yếu nêu trên, Ban Tổ chức Hội thảo rất mong nhận được nhiều ý kiến của các đồng chí đại biểu, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn nhằm cùng nhau đề xuất kiến nghị ở tầm quan điểm, chủ trương chiến lược, những cơ chế chính sách, hệ thống chế tài, các giải pháp cơ bản mang tính đột phá và khả thi bảo đảm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả an sinh xã hội ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bảo đảm để đến năm 2020 hệ thống an sinh xã hội cơ bản bao phủ toàn dân./.
       


(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 91
(2) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 75
(3) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 227
(4) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 189, 191
PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản